Với cuộc khủng hoảng năng lượng đang hoành hành trên toàn thế giới, khiến giá nhiên liệu và các chi phí khác tăng vọt, bạn có thể tự hỏi nguồn năng lượng của mình đến từ đâu. Đặc biệt, dầu thô là một chất khá hữu ích. Theo Statista, trên toàn thế giới, hơn 95 triệu thùng da62u được sử dụng mỗi ngày và đến năm 2026, con số đó có thể tăng lên 104 triệu thùng.
Nhưng chính xác thì dầu thô là gì?
Dầu thô là chất lỏng được tạo ra từ nhiệt độ và áp suất cao, khi tác động lên chất hữu cơ trong một thời gian dài, gây ra những thay đổi hóa học như mất nước, dẫn đến mất gần như tất cả oxy ban đầu có trong sinh khối.
Dầu thô có thể được tìm thấy ở đâu, và nó có thể được sử dụng để làm gì?
Dầu thô có nhiều ở những đại dương, được tạo ra cách đây hàng chục triệu năm và nơi các trầm tích hữu cơ cổ đại bị chôn vùi đủ sâu để vật liệu được ‘nấu’ đến nhiệt độ đủ cao để chuyển hóa thành dầu.
Những khu vực này phần lớn là vùng nhiệt đới, vì khí hậu như vậy “tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thực vật”. Tuy nhiên, do kết quả của sự trôi dạt lục địa, các khu vực từng có khí hậu nhiệt đới cách đây hàng chục nghìn năm “không nhất thiết phải như bây giờ”.
Theo World Civil Review, một tổ chức sử dụng dữ liệu và phân tích để làm nổi bật các xu hướng và số liệu thống kê toàn cầu, quốc gia có trữ lượng dầu nhiều nhất là Venezuela, ước tính có khoảng 300,9 tỷ thùng. Đứng thứ hai trong danh sách là Ả Rập Xê-út, với khoảng 266,5 tỷ thùng, và vị trí thứ ba là Canada, với khoảng 169,70 tỷ thùng. Một ‘thùng’ tương đương với 42 gallon Mỹ, hoặc khoảng 159 lít, theo Đại học Calgary. Mỗi thùng, khi đầy, nặng khoảng 300 pound (136 kg).
Tuy nhiên, việc khai thác dầu thô không phải là một công việc đơn giản, và việc xác định vị trí các điểm ẩn nấp sâu dưới lòng đất có thể là một thách thức lớn.
Trước khi có thể sản xuất dầu từ bể chứa, trước tiên chúng ta phải tìm ra bể chứa. Điều này không đơn giản. Mặc dù hầu hết các hồ chứa đều khá lớn – có chiều ngang vài km và có lẽ dày 50 mét, chúng thường nằm trong khoảng từ 1 km đến 12 km [0,6 và 7,5 dặm] dưới lòng đất.
Các nhà địa vật lý chỉ có thể “nhìn thấy” những trữ lượng tiềm năng này bằng cách gửi các sóng địa chấn qua vỏ Trái đất. Khi những sóng này phản xạ khỏi các lớp đá khác nhau dưới lòng đất, chúng tạo ra bản đồ về thành phần (hoặc vỉa) đá bên dưới. Tuy nhiên, ngay cả khi sử dụng máy tính rất mạnh, rất khó để “hoàn toàn chắc chắn” có dầu dưới lòng đất cho đến khi một giếng được khoan và các chuyên gia có thể “xác định dầu trong các đoạn khoan”.
Hom bằng máy khoan là những mảnh vật liệu được lấy ra từ lỗ đã được khoan sâu xuống đất. Bằng cách phân tích các mảnh vỡ này, các chuyên gia có thể ghi nhận những gì đang được khoan qua – một quá trình được gọi là khai thác bùn – và cuối cùng xác định xem có dầu hay không.
Việc khoan một giếng có thể mất nhiều tháng. Trong một số trường hợp, các dự án khoan có thể tiêu tốn hàng trăm triệu đô la, và khi một mỏ dầu đã được phát hiện, có thể phải mất “vài năm nữa” trước khi nó hoạt động hiệu quả.
Ở những nơi như Ả Rập Xê Út và Texas, phần lớn dầu mỏ được tìm thấy trên đất liền, không xa bề mặt Trái đất. Dầu càng ở gần bề mặt, càng dễ dàng khoan xuống . Khoan trên đất liền ít công việc hơn nhiều so với khoan qua nước
Sản phẩm từ dầu thô
Dầu thô là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, cả về mặt tài chính và cũng như nhiều công dụng của nó. Sau khi được tinh chế, nó có thể được tách thành “các sản phẩm dầu mỏ có thể sử dụng được” như xăng, nhiên liệu máy bay, nhựa đường và nhiên liệu diesel.
Trong khi dầu thô vô cùng hữu ích, việc khai thác dầu thô đang gây hại cho hành tinh. Theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2018 trên tạp chí Science, “hoạt động khai thác, vận chuyển và tinh chế dầu thô” có thể chiếm tới 40% tổng lượng khí thải nhà kính đến từ nhiên liệu vận tải và 5% tổng lượng khí thải toàn cầu.
Hơn nữa, chiết xuất dầu thô thường gây hại cho động vật hoang dã và môi trường địa phương.
Bởi vì hầu hết dầu ít đặc hơn nước, dầu tràn thường nổi trên bề mặt và do đó có thể tác động tiêu cực đến các loài chim, cá và thực vật “thông qua tiếp xúc cơ thể, nuốt phải, hít thở và hấp thụ”, theo Cơ quan Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu thô, nếu được phát triển cho các mục đích khác ngoài nhiên liệu, có thể được sử dụng mà không gây ảnh hưởng nặng nề đến khí hậu. Trong khi hydrocacbon như một nguyên liệu thô gây ra một số tác hại đến môi trường, nó cũng cung cấp hầu hết các khía cạnh của cuộc sống tiện lợi hiện đại của chúng ta.
Ví dụ, dầu thô là thành phần cốt lõi trong nhiều sản phẩm hàng ngày, bao gồm nước hoa, xi đánh giày, viên nang vitamin và sơn. Những vật dụng này không được đốt cháy làm nhiên liệu. Nói cách khác, một khi những sản phẩm này được tạo ra, chúng không tạo ra carbon dioxide, nghĩa là chúng không góp phần gây ra biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, những thứ này hầu hết không phân hủy sinh học và do đó tích tụ trong môi trường, và nó có thể gây ra nhiều vấn đề khác nhau, chẳng hạn như sự tích tụ chất thải biển và vi nhựa bất lợi.
Theo nghiên cứu do Đại học Kyushu ở Nhật Bản thực hiện, có ít nhất 24 nghìn tỷ mảnh vi nhựa trong các đại dương trên thế giới, mặc dù các nguồn khác cho thấy có thể có tới 51 nghìn tỷ. Những vi nhựa này có sức lan tỏa mạnh mẽ, thậm chí chúng còn được tìm thấy trong phân người, Live Science đã đưa tin trước đây.
Thay đổi trong việc sản xuất dầu thô
Dầu thô cùng với các nhiên liệu hóa thạch khác đã cho phép nền văn minh nhân loại phát triển từ thời tiền công nghiệp đến như ngày nay. Nhưng sự thay đổi là cần thiết. Không thể tiếp tục khai thác [nhiên liệu hóa thạch] như cách cđã làm trong 100 năm qua”, chúng nên được coi là bước đệm từ một xã hội không công nghiệp hóa sang một xã hội dựa trên các nguồn tài nguyên bền vững. Đã đến lúc loại bỏ chúng hoàn toàn.